Với mục tiêu đánh giá được năng suất và chất lượng thịt của các tổ hợp bò chính và xây dựng được giải pháp kỹ thuật chăn nuôi hiệu quả cho các tổ hợp bò có năng suất, chất lượng thịt tốt nhất tại Quảng Ngãi, đề tài đã tiến hành điều tra khảo sát hoạt động chăn nuôi và các hoạt động liên quan đến chăn nuôi; thí nghiệm nuôi dưỡng; đánh giá năng suất thịt; đánh giá cảm quan chất lượng thịt bò; tập huấn kỹ thuật chăn nuôi bò được thực hiện tại tỉnh Quảng Ngãi. Qua hơn 2 năm triển khai, đề tài đã đạt được một số kết quả cụ thể như sau:
(1) Hiện trạng chăn nuôi, chuỗi cung ứng và tiêu thụ thịt bò
Đề tài đã xây dựng các mẫu phiếu điều tra khảo sát, với các nhóm chỉ tiêu về hiện trạng chăn nuôi bao gồm: Nhóm chỉ tiêu về nguồn lực của nông hộ, nhóm chỉ tiêu về con bỏ, nhóm chỉ tiêu về nuôi dưỡng, nhóm chỉ tiêu về sở thích của người chăn nuôi đối với các tổ hợp bò
Nhằm thúc đẩy phát triển chăn nuôi bò thịt làm cơ sở định hướng xây dựng thương hiệu thịt bò Quảng Ngãi, Trường Đại học Nông Lâm, Đại học Huế đã đăng ký chủ trì thực hiện đề tài “Đánh giá, so sánh năng suất, chất lượng thịt và đề xuất giải pháp chăn nuôi hiệu quả cho các tổ hợp bò tại Quảng Ngãi làm cơ sở định hướng xây dựng thương hiệu thịt bò Quảng Ngãi”
chuyên thịt, nhóm chỉ tiêu về đánh giá hiệu quả kinh nhóm chỉ tiêu về quản lý chăm sóc. Các chỉ tiêu nghiên cứu đánh giá chuỗi cung ứng và tiêu thụ thịt bò tại các mắt xích chính của chuỗi bao gồm: Tại hộ nuôi bò, tại thương lái buôn bò, tại lò giết mổ, tại người bán sỉ và lẻ, tại điểm bán bê thui, tại siêu thị và tại người tiêu dùng.
Địa điểm thực hiện nghiên cứu tại các huyện có đàn bò chuyện thịt nhiều của tỉnh Quảng Ngãi gồm: Huyện Sơn Tịnh, huyện Nghĩa Hành, huyện Tư Nghĩa, huyện Đức Phổ và thành phố Quảng Ngãi. Quy mô điều tra 350 hộ, trong đó: 200 hộ, mỗi huyện/thành phố 40 hộ, các hộ lựa chọn khảo sát là các hộ có nuôi bò chuyên thịt (bò lại BBB, lại Reds
Angus, Droughtmaster, Charolais); 15 thương lái buôn bò; 10 lò giết mổ bò; 24 người bán sĩ; 24 người bán lẻ; 10 điểm bán bê thui; 2 siêu thị có bán thịt bò; 50 người tiêu dùng thịt; 5 cơ sở cung cấp tỉnh; 10 đại lý bán thức ăn cho vật nuôi.
Qua kết quả khảo sát, đề tài đã đánh giá được hiện trạng chuỗi cung ứng và tiêu thụ thịt bò nuôi tại tỉnh Quảng Ngãi. Nơi tiêu thụ bò thịt và bê con của nông hộ: Đối với bò thịt, phần lớn (82,1%) số lượng bò thịt được nông hộ bán cho các thương lái thu mua bò tại các huyện và 17,9% còn lại bán trực tiếp cho các lò giết mổ bò trong tỉnh. Trong khi bê giống được bán chủ yếu thông qua thương lái thu mua ở địa phương (68%) và 32% số bê con được nông hộ bán trực tiếp cho nông dân khác trong tỉnh để làm giống. Việc tiêu thụ bò của nông hộ chủ yếu dựa trên cơ chế thị trường tự do. Mối liên kết trong tiêu thụ bò/bê của nông hộ với các tác nhân tiêu thụ là rất kém. Kết quả khảo sát cho thấy có đến gần 90% số hộ không có thỏa thuận hoặc liên kết nào với tác nhân tiêu thụ (thương lái và chủ cơ sở giết mổ bò) trong việc bán bò thịt và bê con.
Phần lớn nông hộ bán bò thịt, bê một cách tự phát cho các thương lái hoặc lò mổ tại địa phương. Về chuỗi cung ứng bò thịt: Bò thịt sau khi được nuôi từ nông hộ sẽ được các tác nhân trung gian bao gồm người bán sĩ và người bán lẻ thu gom vào lò mổ tại tỉnh để giết mổ nhằm cung ứng thịt bò cho thị trường ở tỉnh, thông qua 3 kênh tiêu thụ chính gồm:
Kênh 1: Chủ lò mổ địa phương –» Người bán sỉ tại chợ –» Người bán lẻ –» Người tiêu dùng
Kênh 2: Chủ lò mổ địa phương –» Người bán sỉ –) Quán ăn, nhà hàng, người tiêu dùng
Kênh 3: Chủ lò mổ địa phương –» Người bán sỉ –» Cơ sở chế biến bò khô
Trong các tác nhân của chuỗi cung ứng, người chăn nuôi bò tạo ra nhiều giá trị gia tăng nhất chiếm tỷ lệ khoảng 60 % tổng giá trị gia tăng trong toàn chuỗi, tuy nhiên người chăn nuôi bò chỉ chiếm được 27% đến 34% tổng lợi nhuận tạo ra trong chuỗi, gần 70% lợi nhuận còn lại thuộc về các tác nhân khác trong chuỗi trong đó, người bán buôn và bán lẻ thịt bò là những tác nhân thu được nhiều lợi nhuận trong chuỗi.
(2) Kết quả đánh giá năng suất và chất lượng thịt của các tổ hợp bò
Để đánh giá năng suất và chất lượng thịt của các tổ hợp bò , đề tài đã tiến hành thiết kế thí nghiệm và khẩu phần. Thí nghiệm thực hiện tại trang trại ông Lê Xuân Thuyền, thôn An Hòa Nam, xã Nghĩa Thắng. 04 tổ hợp bò lại gồm bò lại BBB, Red Angus, Drougtmaster.
Và Charolais, mỗi giống của 04 tổ hợp . Kết quả đánh giá năng suất thịt của các Các giống bò được sinh xuất thịt khác nhau (P<0,05). Hầu hết của chỉ tiêu về năng ra từ tinh bò chuyên thịt xuất thịt đều ảnh hưởng bởi mức protein trong thức ăn tinh tương ứng phối với bò mẹ (P<0,05), trừ các chỉ tiêu tỷ lệ thịt đứng, tỷ lệ thịt xẻ, tỷ phần ăn được thiết kế ở tương tác giữa yếu tố tổ hợp lại với mức protein đến các là bò Brahman. Khẩu lệ xương và tỷ lệ thịt tinh (P>0,05). Không có ảnh hưởng chỉ tiêu năng suất thịt (P>0,05). 02 mức protein trong thức ăn tinh gồm mức protein theo hiện trạng phổ biến của người chăn nuôi qua quá trình khảo sát (mức thấp) và mức protein theo thí nghiệm (mức cao).
Bò được nuôi 02 giai đoạn gồm: Giai đoạn sinh trưởng (9 tháng, từ bê 6 tháng tuổi đến 15 tháng tuổi) và giai đoạn nuôi kết thúc (3 tháng, từ 16 đến 18 tháng tuổi). Qua 13 tháng nuôi thí nghiệm với khẩu phần ăn ở 02 mức protein trong thức ăn tinh, kết quả cho thấy bò cho ăn mức protein trong thức ăn tinh cao đã có tăng khối lượng cao hơn so với bò cho ăn mức protein trong thức ăn tinh thấp hơn. Cụ thể, trong giai đoạn sinh trưởng (6 – 15 tháng tuổi), 04 tổ hợp bò nuôi theo mức protein phổ biến trong dân có tốc độ sinh trưởng từ 0,5 – 0,6 kg/con/ngày, còn ở mức protein có hàm lượng cao đạt 0,8 – 0,9 kg/ con/ngày, giai đoạn nuôi kết thúc (16-18 tháng tuổi) đạt 1 kg – 1,25 kg/con/ngày. Đề tài đã tiến hành giết mổ 32 con bò để khảo sát năng suất, chất lượng thịt
của 04 tổ hợp , két quả đánh giá năng xuất thịt của các tổ hợp bò cho thấy, các tổ hợp khác nhau có năng xuất khác nhau( P<0,05). Hầu hết của chi tiêu về năng suất thịt đều ảnh hưởng bởi protein, —– Mức protein trong thức ăn tinh khác nhau đã ảnh hưởng đến năng suất thịt ở khía cạnh giá trị tuyệt đối. Bò ăn thức tinh có mức protein cao cho khối lượng thịt xẻ, khối lượng thịt tinh cao hơn so với bò ăn thức ăn tinh có mức protein thấp hơn. Tuy nhiên, mức protein trong thức ăn tỉnh đã không ảnh hưởng đến tỷ lệ thịt xẻ cũng như tỷ lệ thịt tinh (P>0,05). Không có ảnh hưởng tương tác giữa các yếu tố tổ hợp với mức protein đến các chỉ tiêu năng xuất thịt (P>0,05).
Kết quả đánh giá chất lượng thịt của các tổ hợp bò lại dựa vào các nhóm chỉ tiêu về lý hoá: Độ mềm, độ giữ nước, mất nước bảo quản, mất nước chế biến, màu sắc, pH, thành phần hoá học của thịt. Và nhóm chỉ tiêu và cảm quan: màu sắc, mùi, độ mỏng nước,… được thực hiện trên thịt sống và thịt nấu chín
Qua kết quả đánh giá cảm quan thịt tươi của các tổ hợp bò cho thấy, tất cả các chỉ tiêu để đánh giá chất lượng thịt tươi như màu sắc, thớ thịt, độ tươi, mùi thịt và độ kết dính trên 4 mẫu thịt của 4 tổ hợp bò chuyên thịt trong nghiên cứu đều được đánh giá chủ yếu từ mức thích trở lên, trong đó từ mức khá thích đến rất thích chiếm trên 70%.
Kết quả đánh giá cảm quan về thịt chín của các tổ hợp bò cho thấy, thịt của tổ hợp Droughtmaster x Brahman và tổ hợp Red Angus x Brahman được người tiêu dùng thích hơn so với với tổ hợp BBB x Brahman hoặc tổ hợp lại Charolais x Brahman. Đặc biệt về độ béo thì tổ hợp bò Red Angus x Brahman được người tiêu dùng đánh giá ở mức rất thích cao nhất. Điều này có thể do hàm lượng mở trong thịt của tổ hợp bò Red Angus x Brahman là cao hơn so với các tổ hợp bò còn lại.
(3) Đề xuất giải pháp kỹ thuật chăn nuôi phù hợp cho tổ hợp bò chuyên thịt được chọn
Từ kết quả nghiên cứu, đề tài đã tiến hành xây dựng 02 quy trình kỹ thuật chăn nuôi gồm: Quy trình chăn nuôi bò chuyên thịt giai đoạn sinh trưởng và Quy trình chăn nuôi bò chuyên thịt giai đoạn kết thúc. PGS.TS. Đinh Văn Dũng, Khoa Chăn nuôi Thú y, Trường Đại học Nông Lâm, Đại học Huế cho biết: Đề tài đề xuất một số giải pháp nâng cao năng suất, chất lượng trong chăn nuôi bò ở Quảng Ngãi. Về con giống, đề tài đã khảo sát và đánh giá chất lượng lượng thịt của 04 tổ hợp bò và khẳng định rằng cả 04 tổ hợp này đều cho năng suất và chất lượng cao hơn so với bò Zebu trước đây.
Tuy nhiên, việc lựa chọn tổ hợp bò nào tùy thuộc vào điều kiện chăn nuôi của nông hộ/trang trại. Con giống nào cho năng suất cao hơn thì tỉ lệ tiêu tốn thức ăn cũng nhiều hơn, yêu cầu về dinh dưỡng cũng cao hơn. Nếu xét về năng suất tốt thì chọn con BBB, nhưng nếu xét về tổng thể chăn nuôi bò của cả tỉnh thì cũng nên quan tâm đến cả chất lượng thịt, vì vậy theo tôi có thể chọn phương án tạo con Red Angus để làm bò cái nền, rồi sau đó cho vớiccon lại BBB để vừa nâng cao được năng suất vừa có chất lượng thịt tốt hơn.
Về kỹ thuật chăm sóc, nuôi dưỡng, đề tài đã thực hiện thí nghiệm và cho kết quả bò cho ăn mức protein trong thức ăn tinh cao đã có tăng khối lượng cao hơn so với bò cho ăn mức protein trong thức ăn tinh thấp hơn. Về tổ chức sản xuất bò lại chuyên thịt, đối với nông hộ nhỏ, việc nuôi bò sinh sản là phù hợp nhất. Bò sinh sản có mức đầu tư thấp, nhất là thức ăn, do đó không là gánh nặng cho người nông dân về thức ăn cho bò.
Để có định hướng chăn nuôi bò thịt là ngành sản xuất hàng hoá, tiến tới tạo thương hiệu thịt bò Quảng Ngãi. Việc ổn định chất lượng và số lượng đàn bò, ổn định chất lượng thịt bò là rất quan trọng. Để làm được điều đó, bò cần được nuôi tập trung tại các trang trại quy mô lớn, áp dụng quy trình chăn nuôi thống nhất. Do đó, bê nuôi tại nông hộ khi đạt 5-6 tháng tuổi cần được thu gom về nuôi tại các trang trại.
Tại quy trình các trang trại, bò được nuôi theo trong đó chú ý nhất là quy trình nuôi giai đoạn sinh trưởng và giai đoạn kết thúc. Về thị trường tiêu thụ, việc bán bò vẫn chủ yếu qua thương lái nhỏ lẻ trong tỉnh đi thu mua (hơn 82%). Việc kết nối với thị trường tiêu thụ từ người chăn nuôi hiện tại chưa thực hiện. Chuỗi từ người nuôi bò đến người tiêu thụ thịt bò vẫn còn nhiều mắt xích và mang tính manh mún. Hiện tượng ép giá vẫn còn xảy ra.
Do vậy, cần thiết phải có sự kết nối với thị trường tiêu thụ bò thịt, đảm bảo sự ổn định đầu ra trong chăn nuôi bò. Để làm được điều đó, cần phải hình thành các tổ hợp tác/hợp tác xã chăn nuôi/doanh nghiệp cổ phần chăn nuôi bò thịt, tạo mọi điều kiện để các doanh nghiệp chủ động kết nối, tìm kiếm thị trường tiêu thụ. Có như vậy, chăn nuôi bò thịt mới thật sự phát triển bền vững
Nguồn: Bản tin khoa học công nghệ – Số 01 – 2023